Thuốc Cytarabine: Hướng dẫn sử dụng, tác dụng, liều dùng & giá bán
Thông tin chung | Thành phần | Dạng thuốc & Hàm lượng | Tác dụng | Chỉ định | Chống chỉ định | Liều lượng & Cách dùng | Quá liều | Thận trọng | Tác dụng phụ | Tương tác thuốc | Dược lý | Dược động học | Bảo quản | Giá bán & Nơi bán | Đánh giá & Reviews
Thuốc Cytarabine là thuốc gì?
Thuốc Cytarabine là thuốc gốc có thành phần chính chứa Cytarabine. Thuốc thuộc nhóm Thuốc chống ung thư và tác động vào hệ thống miễn dịch chứa hoạt chất chính Cytarabine
- Tên thuốc: Cytarabine
- Phân loại: Thuốc gốc
- Tên khác: Cytarabin
- Tên dược chất gốc: Cytarabine
- Tên biệt dược: Alexan; DBL Cytarabine
- Tên biệt dược mới:
- Nhóm thuốc: Thuốc chống ung thư và tác động vào hệ thống miễn dịch
Thành phần
- Cytarabine
Thuốc Cytarabine có chứa thành phần chính là Cytarabine , các hoạt chất khác và tá dược vừa đủ hàm lượng thuốc nhà cung sản xuất cung cấp.
Dạng thuốc và hàm lượng
Cần xem kỹ dạng thuốc và hàm lượng ghi trên bao bì sản phẩm hoặc trong tờ hướng dẫn sử dụng để biết thông tin chính xác dạng thuốc và hàm lượng trong sản phẩm.
Tác dụng
Thuốc Cytarabine có tác dụng gì?
Tác dụng thuốc Cytarabine được quy định ở mục tác dụng, công dụng Cytarabine trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc.
Cytarabin (Ara-C), chất tương tự desoxycytosin nucleosid là một chất chống chuyển hoá. Cytarabin có tác dụng hoá trị liệu chống ung thư thông qua cơ chế đặc hiệu với pha S của quá trình phân chia tế bào hoạt động ( không có tác dụng trên pha nghỉ ) và ức chế tổng hợp DNA kèm theo tác dụng kìm hãm hoặc diệt tế bào ung thư. Thuốc có tác dụng rất ít trên RNA và quá trình tổng hợp protein. Không thấy có hiện tượng kháng chéo giữa Cytarabin và các thuốc chống ung thư khác. Cytarabin liều cao được dùng để điều trị bệnh bạch cầu khi dùng liều bình thường đã có tình trạng kháng thuốc tương đối.
Tác dụng, công dụng thuốc Cytarabine trong trường hợp khác
Mỗi loại thuốc sản xuất đều có tác dụng chính để điều trị một số bệnh lý hay tình trạng cụ thể. Chính gì vậy chỉ sử dụng thuốc Cytarabine để điều trị các bênh lý được quy định trong hướng dẫn sử dụng. Mặc dù thuốc Cytarabine có thể có một số tác dụng khác không được liệt kê trên nhãn thuốc đã được phê duyệt bạn chỉ sử dụng thuốc này để điều trị một số bệnh lý khác khi có chỉ định của bác sĩ.
Chỉ định
Thông tin chỉ định thuốc Cytarabine:
Giảm nhẹ và duy trì tình trạng này cho cả người lớn và trẻ em mắc bệnh bạch cầu cấp tính không thuộc dòng lymphô. Thuốc cũng có ích trong việc điều trị bệnh bạch cầu khác, như là bệnh bạch cầu cấp tính dòng lymphô, bệnh bạch cầu mạn tính dòng tủy dòng tủy (giai đoạn nguyên bào). Có thể dùng Cytarabine đơn độc hay phối hợp với các chất chống ung thư khác những kết quả tốt nhất thường do trị liệu phối hợp. Nếu không điều trị duy trì thì sự thuyên giảm do Cytarabine chỉ thoáng qua. Thuốc đã được thực nghiệm trong nhiều bệnh ung thư khác nhau. Nói chung, thuốc có tác dụng trên một số ít bệnh nhân có khối u chắc. Một chương trình phối hợp thuốc với Cytarabine có ích cho trẻ em có u lymphô không phải Hodgkin. Cytarabine truyền tĩnh mạch liều cao 2-3g/m2 từ 1-3 giờ mỗi 12 giờ trong 2-6 ngày, kèm theo chất hóa trị liệu ung thư hoặc không, có hiệu quả điều trị đối với bệnh bạch cầu nhẹ, bệnh bạch cầu kháng thuốc và bệnh bạch cầu tái phát cấp tính. Dùng Cytarabine đơn độc hay phối hợp với thuốc khác (methotrexate, hydrocortisone sodium succinate) tiêm trong vỏ để phòng ngừa hay điều trị bệnh bạch cầu màng não.Chống chỉ định
Thông tin chống chỉ định thuốc Cytarabine:
Cytarabine có chống chỉ định cho bệnh nhân mẫn cảm với thuốc.
Liều lượng và cách dùng
Cách dùng thuốc Cytarabine
Mỗi loại thuốc, dược phẩm sản xuất theo dạng thuốc khác nhau và có cách dùng khác nhau theo đường dùng. Các đường dùng thuốc thông thường phân theo dạng thuốc là: thuốc uống, thuốc tiêm, thuốc dùng ngoài và thuốc đặt. Đọc kỹ hướng dẫn cách dùng Cytarabine ghi trên từ hướng dẫn sử dụng thuốc, không tự ý sử dụng thuốc theo đường dùng khác không ghi trên tờ hướng dẫn sử dụng thuốc Cytarabine.
Liều lượng dùng Cytarabine
Cytarabine không có tác dụng khi uống. Phác đồ và cách sử dụng thay đổi theo chương trình trị liệu. Có thể truyền hay tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da hoặc trong vỏ. Khi được tiêm mạch nhanh bệnh nhân có thể dung nạp thuốc ở liều cao hơn so với truyền tĩnh mạch chậm. Hiện tượng này là do tính gây bất hoạt nhanh chóng của thuốc và sự phơi nhiễm ngắn ngủi của các tế bào bình thường và ung thư nhạy cảm với nồng độ thuốc cao sau khi tiêm nhanh. Dường như tế bào bình thường và tế bào ung thư đáp ứng gần giống nhau đối với những cách sử dụng này và ưu thế điều trị không biểu hiện một cách dứt khoát. Trong liệu pháp gây cảm ứng với bệnh bạch cầu cấp tính không thuộc dòng lymphô, liều cytarabine thường dùng phối hợp với thuốc chống ung thư khác là truyền tĩnh mạch liên tục 100mg/m2 mỗi ngày (ngày 1-7) hoặc tiêm tĩnh mạch 100mg/m2 mỗi 12 giờ (ngày 1-7). Trong bệnh bạch cầu cấp tính dòng lymphô phải tham khảo y văn về những khuyến cáo hiện hành. Dùng đường trong vỏ ở bệnh bạch cầu màng não: Cytarabine được dùng tiêm trong vỏ cho bệnh bạch cầu cấp với liều từ 5mg/m2 đến 75mg/m2 bề mặt cơ thể. Cách tiêm thay đổi từ một lần mỗi ngày trong 4 ngày đến một lần mỗi 4 ngày, liều thường dùng nhất là 30mg/m2 mỗi 4 ngày cho đến khi xét nghiệm dịch não tủy bình thường, kế đến là một điều trị bổ sung. Phác đồ này thường được quyết định tùy theo kiểu biểu hiện và độ trầm trọng của triệu chứng thần kinh trung ương cũng như đáp ứng với điều trị trước đó. Cytarabine được tiêm trong vỏ với hydrocorytisone sodium succinate và methotrexate để trị liệu phòng ngừa ở trẻ mới được chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, cũng như trong điều trị bệnh bạch cầu màng não. Sullivan đã báo cáo liệu pháp ba thuốc phòng ngừa này ngăn chận được bệnh thần kinh trung ương về sau, liệu pháp này còn cho sự trị liệu toàn diện và tỷ lệ sống sót tương tự nhóm bệnh nhân được phòng ngừa bằng xạ trị thần kinh trung ương và tiêm trong vỏ methotrexate. Liều Cytarabine là 30mg/m2,Hydrocortisone sodium succinate 15mg/m2, và methotrexate 15mg/m2. Bác sĩ cần phải đọc bài báo cáo này trước khi bắt đầu điều trị. Liệu pháp ba thuốc phòng ngừa cũng hữu ích tiếp sau điều trị thành công giai đoạn màng não cấp tính. Bác sĩ phải tự tra cứu y văn hiện hành trước khi thực hiện một chương trình như vậy. Dùng cho trẻ em: Sử dụng Cytarabine trên trẻ em tương tự sử dụng trên người lớn. Pha thuốc: Cytarabine chủ yếu được pha thành dung dịch dùng một lần. Khi pha chế để sử dụng nhiều lần, chất pha loãng phải có chứa chất bảo quản. Bột Cytarabine vô trùng có thể được hòa tan trong nước để tiêm 0,9% sodium chloride hay 5% glucose trong nước có chứa hoặc không chứa chất bảo quản. Ðể tiêm trong vỏ thì đề nghị dùng 0,9% sodium chloride không chất bảo quản. Nồng độ tối đa có thể đạt được sau khi pha loãng là 100mg/ml. Ðể có được dung dịch 100mg/ml một cách chính xác phải thêm vào thể tích sau đây: 4,7ml thêm: 500mg Cytarabine 9,4ml thêm: 1g Cytarabine 18,7ml thêm: 2g Cytarabine
Quy định chung về liều dùng thuốc Cytarabine
Nên nhớ rằng có rất nhiều yếu tố để quy định về liều lượng dùng thuốc. Thông thường sẽ phụ thuộc vào tình trạng, dạng thuốc và đối tượng sử dụng. Hãy luôn tuân thủ liều dùng được quy định trên tờ hướng dẫn sử dụng và theo chỉ dẫn của bác sĩ, dược sĩ.
Liều dùng thuốc Cytarabine cho người lớn
Các quy định về liều dùng thuốc thường nhằm hướng dẫn cho đối tượng người lớn theo đường uống. Liều dùng các đường khác được quy định trong tờ hướng dẫn sử dụng. Không được tự ý thay đổi liều dùng thuốc khi chưa có ý kiến của bác sĩ, dược sĩ.
Liều dùng thuốc Cytarabine cho cho trẻ em
Các khác biệt của trẻ em so với người lớn như dược động học, dược lực học, tác dụng phụ... đặc biệt trẻ em là đối tượng không được phép đem vào thử nghiệm lâm sàng trước khi cấp phép lưu hành thuốc mới. Chính vì vậy dùng thuốc cho đối tượng trẻ em này cần rất cẩn trọng ngay cả với những thuốc chưa được cảnh báo.
Quá liều, quên liều, khẩn cấp
Xử lý trong trường hợp khẩn cấp hoặc quá liều
Trong các trường hợp khẩn cấp hoặc dùng quá liều có biểu hiện nguy hiểm cần gọi ngay cho Trung tâm cấp cứu 115 hoặc đến Cơ sở Y tế địa phương gần nhất. Người thân cần cung cấp cho bác sĩ đơn thuốc đang dùng, các thuốc đang dùng bao gồm cả thuốc kê toa và thuốc không kê toa.
Nên làm gì nếu quên một liều
Trong trường hợp bạn quên một liều khi đang trong quá trình dùng thuốc hãy dùng càng sớm càng tốt(thông thường có thể uống thuốc cách 1-2 giờ so với giờ được bác sĩ yêu cầu).Tuy nhiên, nếu thời gian đã gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm đã quy định. Lưu ý không dùng gấp đôi liều lượng đã quy định.
Thận trọng, cảnh báo và lưu ý
Lưu ý trước khi dùng thuốc Cytarabine
Chỉ có bác sĩ nhiều kinh nghiệm hóa trị liệu ung thư mới nên dùng Cytarabine. Trong liệu pháp cảm ứng, bệnh nhân phải được điều trị kèm theo xét nghiệm và đủ biện pháp hổ trợ để theo dõi sự dung nạp thuốc để bảo vệ và duy trì một bệnh nhân bị tổn hại bởi độc tính của thuốc. Bác sĩ phải cân nhắc ích lợi của thuốc trên bệnh nhân với những tác dụng độc của thuốc trong khi suy xét khả năng thích hợp điều trị của Cytarabine. Trước khi quyết định hay bắt đầu điều trị, bác sĩ phải quen thuộc với thử nghiệm sau đây. Cytarabine là thuốc ức chế tủy xương mạnh. Ðiều trị phải được bắt đầu một cách thận trọng trên bệnh nhân đang bị ức chế tủy xương bởi thuốc. Những bệnh nhân dùng thuốc này phải được giám sát y tế chặt chẽ và suốt thời gian trị liệu cảm ứng, phải được đếm bạch cầu và tiểu cầu hàng ngày. Xét nghiệm tủy xương phải được tiến hành thường xuyên sau khi các nguyên bào không còn trong máu ngoại biên. Phải có các phương tiện thích hợp để xử lý biến chứng, có thể gây chết, của ức chế tủy xương (nhiễm trùng hậu quả của giảm bạch cầu hạt và các tổn thương khác của hệ thống phòng vệ cơ thể, và xuất huyết thứ phát bởi giảm tiểu cầu). Ðã có một trường hợp phản vệ làm ngưng tim phổi cấp tính phải hồi sức cấp cứu, xảy ra ngay sau tiêm tĩnh mạch Cytarabine. Nếu dùng liệu pháp liều cao, không được sử dụng chất pha loãng chứa benzyl alcohol. Benzyl alcohol có liên quan đến "Hội chứng thở hổn hển" gây chết ở trẻ sinh non. Nhiều nhà lâm sàng đã phục nguyên thuốc bằng sodium chloride 0,9% không chứa chất bảo quản và dùng ngay. Bệnh nhân dùng Cytarabine phải được theo dõi chặt chẽ. Yêu cầu là phải đếm tiểu cầu và bạch cầu và xét nghiệm tủy xương thường xuyên. Nên nghĩ đến vệc ngưng hoặc thay đổi trị liệu khi sự ức chế tủy xương gây ra đếm tiểu cầu dưới 50.000 hay bạch cầu đa nhân dưới 1000/mm3. Các yếu tố trong máu ngoại biên có thể tiếp tục giảm sau khi ngưng thuốc và đạt trị số thấp nhất sau 12-24 ngày. Nếu có chỉ định, nên khởi sự điều trị lại khi xuất hiện dấu hiệu khẳng định sự phục hồi tủy (qua các xét nghiệm tủy xương liên tiếp). Những bệnh nhân được ngưng thuốc đến khi trị số máu ngoại biên trở lại "bình thường" có thể thoát khỏi sự kiểm soát. Viêm tắc tĩnh mạch tại chỗ tiêm hay truyền xảy ra trên một số bệnh nhân, và hiếm có bệnh nhân ghi nhận đau và sưng ở chổ tiêm dưới da. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, thuốc được dung nạp tốt. Khi tiêm tĩnh mạch nhanh liều lớn, bệnh nhân thường buồn nôn và có thể nôn nhiều giờ sau tiêm. Vấn đề này có vẻ ít trầm trọng hơn khi truyền tĩnh mạch. Gan người giải độc được phần lớn liều cho. Nên thận trọng khi dùng thuốc và ở liều giảm bớt trên bệnh nhân có chức năng gan kém. Phải tiến hành kiểm tra định kỳ về tủy xương, chức năng gan và thận cho bệnh nhân dùng Cytarabine. Cũng như các thuốc gây độc tế bào khác, Cytarabine có thể gây tăng urê máu thứ phát do ly giải nhanh tế bào ung thư. Bác sĩ phải theo dõi nồng độ acid uric trong máu bệnh nhân và sẳn sàng mọi phương tiện trợ giúp và thuốc men cần thiết để kiểm soát được tình trạng này. Viêm tụy cấp đã xảy ra trên bệnh nhân dùng Cytarabine phối hợp với các thuốc khác. Có hai bệnh nhân thời niên thiếu bị bệnh bạch cầu dòng tủy cấp được tiêm trong vỏ và tiêm tĩnh mạch Cytarabine theo liều qui ước, cùng lúc với một số thuốc khác, về sau đã bị liệt tiến triển hướng lên dẫn đến chết một trong hai người. Hai bệnh nhân được điều trị Cytarabine theo liều qui ước và daunomycin bị đau khi ấn bụng (viêm phúc mạc) và viêm đại tràng guaiac dương tính. Cả hai đã đáp ứng với điều trị bảo tồn. Hai người đều có giảm bạch cầu trung tính và tiểu cầu và được cho dùng nhiều thuốc khác. Các tác giả đề nghị xử trí bảo tồn, thận trọng trên bệnh nhân dùng Cytarabine mà có bụng ngoại khoa, nhưng không thể chẩn đoán ngoại khoa xác định được. Trong xưởng sản xuất các tác dụng do tiếp xúc nhiều không ghi nhận được. Có thể mắt bị kích thích nhẹ. Tiếp xúc qua da liên tục hay lặp đi lặp lại có thể gây kích thích. Trường hợp có tai bến do tiếp xúc nên rửa sạch vùng chịu ảnh hưởng với nước và xà bông. Dùng đường tiêm trong vỏ: Nếu tiêm trong vỏ, không được sử dụng chất pha loãng chứa benzyl alcohol. Nhiều nhà lâm sàng đã phục nguyên thuốc bằng sodium chloride 0,9% không chứa chất bảo quản và dùng ngay. Cytarabine tiêm trong vỏ có thể gây độc toàn thân và có chỉ định theo dõi kỹ hệ thống tạo huyết cầu. Có thể cần phải thay đổi trong điều trị chống bệnh bạch cầu. Hiếm có độc tính lớn. Phản ứng thường thấy nhất sau khi tiêm trong vỏ là buồn nôn, nôn và sốt, chúng nhẹ và tự giới hạn. Có báo về tình trạng liệt hai chi dưới. Bệnh chất trắng não hoại tử xuất hiện trên 5 trẻ em; những bệnh nhi này còn được tiêm trong vỏ methotrexate và hydrocortisone, cùng xạ trị hệ thần kinh trung ương. Ðộc tính trên thần kinh riêng lẻ được ghi nhận. Hai bệnh nhân trước đó được hoá trị liệu toàn thân phối hợp, xạ trị phòng ngừa hệ thần kinh trung ương và tiêm trong vỏ Cytarabine bị mù khi bệnh thuyên giảm. Các ổ thâm nhiễm bạch cầu của hệ thần kinh trung ương có thể không đáp ứng với Cytarabine tiêm trong vỏ và xạ trị có thể cho kết quả tốt hơn. Tính sinh u, sinh đột biến, tổn thương sinh sản: Tổn thương rộng lớn nhiễm sắc thể, gồm đứt gãy nhiễm sắc do cytarabine và biến hình ác tính tế bào gậm nhấm trong nuôi cấy đã được quan sát thấy. Tương kỵ: Cytarabine được biết là tương kỵ vật lý với heparin, insulin, methetrexate, 5-fluorouracil, nascillin, oxacillin, pelicillin G và methylprednisolone sodium succinate. Tính ổn định và tương hợp sau khi phục nguyên: Các nghiên cứu về tính ổn định lý hóa của Cytarabine cho thấy cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng trong 7 ngày khi pha trộn ở nồng độ 0,5mg/ml trong chai thủy tinh IV và túi nhựa IV với: nước để tiêm, dextrose 5% để tiêm, và dung dịch sodium chloride 0,9% để tiêm. Cũng vậy, khi pha trộn tương tự từ 8-32mg/ml trong chai thủy tinh IV và túi nhựa IV, cytarabine bền vững trong 7 ngày ở nhiệt độ phòng, -20 độ C, và 4 độ C trong dung dịch dextrose 5% tiêm; dextrose 5% trong sodium chloride 0,2% để tiêm; và, trong dung dịch sodium chloride 0,9% để tiêm. Cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng ở nồng độ 2 mg/ml với sự hiện diện của KCl tương đương với 50mEq/500ml trong dextrose 5% và sodium chloride 0,9% cho tới 8 ngày. Cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng và nhiệt độ tủ lạnh (8 độ C) ở nồng độ 0,2-1,0mg/ml với sự hiện diện của sodium bicarbonate tương đương với 50mEq/L trong dextrose 5% pha trong nước hay dextrose 5% pha trong sodium chloride 0,2% 7 ngày trong chai thủy tinh Travenol hay túi Viaflex. Tương hợp thuốc: Cytarabine tương hợp với những thuốc sau, ở nồng độ đặc biệt, trong dextrose 5% pha trong nước trong 8 giờ: Cytarabine 0,8mg/ml và sodium cephalothin 1,0mg/ml; Cytarabine 0,4mg/ml và prednisolone sodium phosphate 0,2mg/ml; cytarabine 16mcg/ml và vincristine sulfate 4mcg/ml. LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ Lúc có thai: Cytarabine gây quái thai trên vài loại động vật. Chỉ được sử dụng thuốc này trên phụ nữ đang mang thai hay có thể sắp mang thai sau khi suy xét lợi ích và nguy cơ cho mẹ và con. Phụ nữ có khả năng mang thai phải được khuyên nên tránh có thai. Bởi vì trị liệu gây độc tế bào có tiềm năng sinh dị tật, nhất là trong 3 tháng đầu, một bệnh nhân đang có thai hay có thể mang thai trong khi dùng Cytarabine phải được báo cho biết nguy cơ đối với thai nhi và tính hợp lý của việc tạm ngưng thai kỳ. Lúc nuôi con bú: Người ta chưa biết thuốc có bài tiết vào sữa mẹ không. Bởi vì nhiều loại thuốc bài tiết vào sữa mẹ và khả năng gây phản ứng phụ trầm trọng cho trẻ bú mẹ của cytarabine, cần phải quyết định xem nên thôi cho bú hay ngưng thuốc, căn cứ trên sự quan trọng của thuốc đối với bà mẹ.
Lưu ý dùng thuốc Cytarabine trong thời kỳ mang thai
Tránh dùng (gây quái thai trên động vật nghiên cứu);Lưu ý chung trong thời kỳ mang thai: Thuốc được sử dụng trong thời kỳ thai nghén có thể gây tác dụng xấu(sảy thai, quái thai, dị tật thai nhi...) đến bất cứ giai đoạn phát triển nào của thai kỳ, đặc biệt là ba tháng đầu. Chính vì vậy tốt nhất là không nên dùng thuốc đối với phụ nữ có thai. Trong trường hợp bắt buộc phải dùng, cần tham khảo kỹ ý kiến của bác sĩ, dược sĩ trước khi quyết định.
Lưu ý dùng thuốc Cytarabine trong thời kỳ cho con bú
Lưu ý chung trong thời kỳ cho con bú: Thuốc có thể truyền qua trẻ thông qua việc bú sữa mẹ. Tốt nhất là không nên hoặc hạn chế dùng thuốc trong thời kỳ cho con bú. Rất nhiều loại thuốc chưa xác định hết các tác động của thuốc trong thời kỳ này bà mẹ cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng và tham khảo ý kiến của bác sĩ, dược sĩ trước khi quyết định dùng thuốc.
Tác dụng phụ
Các tác dụng phụ của thuốc Cytarabine
Những phản ứng định trước: Vì Cytarabine là chất ức chế tủy xương, hậu quả định trước của việc sử dụng thuốc là thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, tăng nguyên hồng cầu khổng lồ và giảm hồng cầu lưới. Mức độ các phản ứng này phụ thuộc liều lượng và phác đồ. Có thể tiên đoán được những thay đổi về hình dạng tế bào trong tủy xương và phết màu ngoại biên. Sau năm ngày truyền tĩnh mạch hoặc tiêm từ 50mg/m2 đến 600mg/m2, sự ức chế bạch cầu trải qua hai giai đoạn. Không tính số đếm ban đầu, liều lượng, hay phác đồ, bạch cầu bắt đầu giảm trong 24 giờ đầu tiên tới điểm thấp nhất vào ngày 7-9. Sau đó thoáng tăng lên với đỉnh vào khoảng ngày 12. Lần thứ 2 giảm nhiều tới điểm thấp nhất vào ngày 15-24. Trong 10 ngày tiếp sau nhanh chóng tăng lên trên mức căn bản. Sự ức chế tiểu cầu thấy được vào ngày 5 với đỉnh thấp nhất vào giữa ngày 12-15. Trong 10 ngày tiếp theo nhanh chóng tăng lên trên mức căn bản. Biến chứng nhiễm trùng: Nhiễm siêu vi, vi khuẩn, vi nấm, ký sinh trùng hay nhiễm vi sinh vật hoại sinh, ở bất cứ vị trí nào của cơ thể, có thể liên quan đến việc sử dụng Cytarabine đơn độc hoặc phối hợp với chất ức chế miễn dịch khác theo sau liều ức chế miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Những nhiễm trùng này có thể nhẹ, có thể nặng và có khi gây tử vong. Hội chứng Cytarabine: Hội chứng Cytarabine đã được mô tả. Ðặc điểm của nó là sốt, đau cơ, đau xương, thỉnh thoảng đau ngực, nổi ban dát sẩn, viêm kết mạc và mệt mỏi. Thường xuất hiện 6-12 sau khi dùng thuốc. Corticosteroid hữu ích để trị hay ngừa hội chứng này. Nếu nghĩ rằng triệu chứng có thể chữa được, cần phải nghĩ đến corticosteroid cũng như tiếp tục trị liệu với Cytarabine. Những phản ứng thường xảy ra nhất: Chán ăn, rối loạn chức năng gan, buồn nôn, ôn mửa, tiêu chảy, sốt, nổi ban, viêm tắc tĩnh mạch, viêm hay loét miệng và hậu môn. Buồn nôn và nôn thường xảy ra nhất sau khi tiêm tĩnh mạch. Những phản ứng phụ ít xảy ra hơn: Nhiễm độc máu, viêm phổi, viêm mô tế bào tại nơi tiêm đau bụng, loét da, tàn nhang, bí tiểu, vàng da, rối loạn chức năng thận, viêm kết mạc, viêm thần kinh (có thể kèm theo nổi ban), độc tính trên thần kinh, chóng mặt, đau họng, rụng lông tóc, loét thực quản, viêm thực quản phản vệ (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng), viêm thực quản, phù dị ứng, đau ngực, ngứa, nhức đầu, hơi thở ngắn, nổi mề đay. Trị liệu liều cao: Phác đồ liều cao Cytarabine (2-3g/m2) có độc tính nặng, đôi khi gây chết, trên hệ thần kinh trung ương, hệ tiêu hóa và phổi (khác với các phản ứng do dùng Cytarabine theo liều qui ước). Những phản ứng nặng này bao gồm: - Ðộc tính trên giác mạc, và viêm kết mạc xuất huyết, có thể phòng ngừa hay giảm nhẹ bằng thuốc nhỏ mắt corticosteroid. - Loạn chức năng não và tiểu não như thay đổi nhân cách, mất ngủ và hôn mê, thường hồi phục được. - Loét đường tiêu hóa nặng, bao gồm: chứng trướng khí nang ruột dẫn tới viêm phúc mạc. - Nhiễm độc máu và áp xe gan. - Phù phổi. - Tổn thương gan kèm theo tăng bilirubin máu. - Hoại tử ruột. - Viêm đại tràng hoại tử. Hai bệnh nhân bạch cầu cấp không thuộc dòng lymphô đã bị bệnh thần kinh vận động và cảm giác ngoại biên sau khi dùng liều cao Cytarabine, daunorubicin và asparaginase. Những bệnh nhân dùng liều cao Cytarabine phải được theo dõi biến chứng thần kinh bởi vì có thể cần thay đổi liều trong phác đồ để tránh những rối loạn thần kinh không hồi phục rất hiếm khi được ghi nhận. Mười bệnh nhân được thực nghiệm liều trung gian (1g/m2) Cytarabine đơn độc hay phối hợp với hóa dược khác (amsacrine, daunorubicin, etoposide) bị viêm phổi mô kẽ lan tỏa nguyên nhân không rõ ràng có thể là do Cytarabine. Ðã có báo cáo về trường hợp phát ban không nặng, dẫn đến tróc vẩy da. Rụng lông tóc toàn thân thường thấy ở trị liệu liều cao hơn là với liều Cytarabine chuẩn. Nếu trị liệu liều cao, không được dùng chất pha loãng có benzyl alcohol. Bệnh về cơ tim dẫn đến tử vong tăng lên sau khi thực nghiệm liều cao Cytarabine và cyclophosphamide để chuẩn bị ghép tủy xương. Ðiều này có thể phụ thuộc vào liều thuốc. Hội chứng nguy kịch hô hấp đột ngột, tiến triển nhanh chóng đến phù phổi và tim to rõ rệt trên phim X quang tiếp sau thực nghiệm liều cao Cytarabine để điều trị bệnh bạch cầu tái phát. Ở một trường hợp, hậu quả của hội chứng này là tử vong.
Các tác dụng phụ khác
Cần lưu ý trên đây không phải là danh mục đầy đủ tất cả các tác dụng phụ của thuốc Cytarabine. Trong quá trình sử dụng có thể xảy ra những tác dụng phụ khác mà chưa biểu hiện hoặc chưa được nghiên cứu. Nếu có bất kỳ biểu hiện khác nào về tác dụng phụ của Cytarabine không quy định trong hướng dẫn sử dụng, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ.
Tương tác thuốc
Khi sử dụng cùng một lúc hai hoặc nhiều thuốc thường dễ xảy ra tương tác thuốc dẫn đến hiện tượng đối kháng hoặc hiệp đồng.
Tương tác thuốc Cytarabine với thuốc khác
Thuốc Cytarabine có thể tương tác với những loại thuốc nào?
Sự phối hợp cytarabine với thuốc chống ung thư hay ức chế tủy khác hoặc xạ trị tăng cường độc tính cũng như tác động ức chế miễn dịch của các thuốc trong một số trường hợp. Một liều kìm tế bào của Cytarabine dẫn tới sự giảm có thể phục hồi được nồng độ digoxin ổn định trong huyết tương và sự bài tiết glycoside qua thận. Mức độ digoxin phải được theo dõi chặt chẽ suốt quá trình trị liệu kìm tế bào. Nồng độ digitoxin ổn định trong huyết tương có vẻ không đổi. Việc sử dụng digitoxin cho những bệnh nhân này có thể coi là trị liệu thay thế. Một nghiên cứu về sự tương tác giữa gentamicin và cytarabine cho thấy cytarabine liên quan tính đề kháng của K. pneumoniae. Nghiên cứu này đề nghị trên bệnh nhân dùng cytarabine được đều trị nhiễm K. pneumoniae với gentamicin, sự thiếu đáp ứng nhanh chóng điều trị chứng tỏ sự cần thiết phải đánh giá lại trị liệu kháng sinh. Chứng cứ lâm sàng ở một bệnh nhân cho thấy Cytarabine có khả năng ức chế hiệu quả của fluorocytosine, có thể do sự ức chế cạnh tranh chất nhận.
Tương tác thuốc Cytarabine với thực phẩm, đồ uống
Khi sử dụng thuốc với các loại thực phẩm hoặc rượu, bia, thuốc lá... do trong các loại thực phẩm, đồ uống đó có chứa các hoạt chất khác nên có thể ảnh hưởng gây hiện tượng đối kháng hoặc hiệp đồng với thuốc. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng thuốc hoặc tham khảo ý kiến của bác sĩ, dược sĩ về việc uống thuốc Cytarabine cùng thức ăn, rượu và thuốc lá.
Dược lý và cơ chế tác dụng
Cytarabine là một chất chống chuyển hóa. Mặc dù cơ chế chưa được hiểu biết đầy đủ , dường như cytarabine tác động thông qua việc ức chế DNA polymerase. Cytarabine chỉ thâm nhập giới hạn vào DNA và RNA nhưng có tác dụng quan trọng.
Dược động học
Hấp thu: Cytarabine không hiệu quả khi uống; ít hơn 20% liều thuốc được hấp thu vào đường tiêu hóa. Có thể đạt được mức độ tương đối hằng định trong huyết tương bằng sau khi tiêm dưới da hoặc tiêm bắp Cytarabine, nồng độ phóng xạ trong huyết tương lên đến mức đỉnh trong vòng 20-60 phút và thấp hơn nhiều so với đường tĩnh mạch. Nồng độ cytarabine trong huyết tương các bệnh nhân nhận cùng một liều thuốc rất khác nhau. Một số nghiên cứu cho rằng sự khác biệt này liên quan tới đáp ứng lâm sàng. Nồng độ trong huyết tương cao liên đới với sự thuyên giảm về mặt huyết học. Phân phối: Với nồng độ điều trị đạt được trong huyết tương là 0,005-1,0mg/l; 13,3% cytarabine trong huyết tương kết hợp với protein. Tỷ lệ thuốc kết hợp không lệ thuộc vào nồng độ trong giới hạn điều trị của thuốc. Thực nghiệm với liều 2 hay 3g/cm2 bằng đường tĩnh mạch mỗi 12 giờ cho thấy thuốc đi vào hệ thần kinh trung ương một lượng lớn, sự phân cytarabine trong màn cứng, đi qua màng nhện và có thể cả nhu mô não tốt hơn dùng liều chuẩn tiêm trong vỏ. Trên bệnh nhân dùng liều chuẩn liên tục bằng đường tiêm dưới da và truyền tĩnh mạch, nồng độ thuốc trong dịch não tủy không đổi theo nhịp độ truyền. Biến đổi sinh học: Cytarabine được chuyển hóa bởi deoxycytidine kinase và những nucleotide kinase khác thành nucleotide triphosphate, một chất có tác dụng ức chế DNA polymerase. Cytarabine được hoàn nguyên dạng hoạt động bằng sự phosphoryl hóa trong nguyên bào leukemia và tủy xương bình thường. Cytarabine nhanh chóng bị khử amin bởi cytidine deaminase thành thành uracil arabinoside (1-b-D-arabinofuranosyluracil) không hoạt động. Quá trình này xảy ra chủ yếu ở gan, còn có trong máu và những mô khác ở mức độ ít hơn. Dường như sự cân đối giữa nồng độ kinase và deaminase là yếu tố quan trọng xác định tính nhạy cảm hay đề kháng của tế bào đối với cytarabine. Bài tiết: Sau khi tiêm tĩnh mạch nhanh Cytarabine, thuốc được đào thải khỏi huyết tương theo hai pha. Ðầu tiên là pha phân phối có thời gian bán hủy khoảng 10 phút, sau đó là pha thải trừ có thời gian bán hủy từ 1 đến 3 giờ. Trong 24 giờ khoảng 80% chất phóng xạ có thể tìm thấy lại trong nước tiểu, trong đó 1-beta-D-arabinofuranosyluracil chiếm gần 90%.
Độ ổn định và bảo quản thuốc
Nên bảo quản thuốc Cytarabine như thế nào
Bảo quản sản phẩm chưa pha ở nhiệt độ phòng từ 15-30 độ C. Sau khi phục nguyên với chất pha loãng có chất bảo quản, dung dịch có thể giữ ở nhiệt độ trên trong 48 giờ. Sau khi phục nguyên với chất pha loãng không chứa chất bảo quản, sử dụng dung dịch càng
Nồng độ, hàm lượng, hoạt chất thuốc bị ảnh hưởng nếu bảo thuốc không tốt hoặc khi quá hạn sử dụng dẫn đến nguy hại khi sử dụng. Đọc kỹ thông tin bảo quản và hạn sử dụng thuốc được ghi trên vỏ sản phẩm và tờ hướng dẫn sử dụng thuốc Cytarabine. Thông thường các thuốc được bảo quản ở nhiệt độ phòng, tránh ẩm và ánh sáng. Khi thuốc quá hạn hoặc không thể sử dụng nên tham khảo với bác sĩ, dược sĩ hoặc đơn vị xử lý rác để có cách tiêu hủy thuốc an toàn. Không nên vứt thuốc vào toilet hoặc đường ống dẫn nước trừ khi có yêu cầu.
Lưu ý khác về bảo quản thuốc Cytarabine
Lưu ý không để thuốc ở tầm với của trẻ em, giữ thuốc tránh xa thú nuôi. Trước khi dùng thuốc, cần kiểm tra lại hạn sử dụng ghi trên vỏ sản phẩm, đặc biệt với những thuốc dự trữ tại nhà.
Giá bán và nơi bán
Thuốc Cytarabine giá bao nhiêu?
Giá bán thuốc Cytarabine sẽ khác nhau ở các cơ sở kinh doanh thuốc. Liên hệ nhà thuốc, phòng khám, bệnh viện hoặc các cơ sở có giấy phép kinh doanh thuốc để cập nhật chính xác giá thuốc Cytarabine.
Nơi bán thuốc Cytarabine
Mua thuốc Cytarabine ở đâu? Nếu bạn có giấy phép sử dụng thuốc hiện tại có thể mua thuốc online hoặc các nhà phân phối dược để mua sỉ thuốc Cytarabine. Với cá nhân có thể mua online các thuốc không kê toa hoặc các thực phẩm chức năng...Để mua trực tiếp hãy đến các nhà thuốc tư nhân, nhà thuốc bệnh viện, nhà thuốc phòng khám hoặc các cơ sở được phép kinh doanh thuốc gần nhất.
Trên đây là thông tin giúp bạn hiểu rõ thuốc Cytarabine là thuốc gì? Hướng dẫn sử dụng thuốc Cytarabine. Bài viết được tổng hợp từ nhiều nguồn và mang tính tham khảo. Liên hệ hoặc bình luận ở dưới để giúp cải thiện nội dung bài viết tốt hơn!
Xem thêm: Tác dụng thuốc